Phê bình thuyết vô thần của Karl Marx* (phần II)


lamhong - PHÊ BÌNH LÝ THUYẾT VÔ THẦN CỦA MARX
A. Chủ thuyết Marx nhắc nhở chúng ta một vài chân lý:

1. Marx nhắc nhở con người phải ý thức về vai trò chủ động của họ trong công trình biến cải vũ trụ cũng như về bản chất cộng đoàn mà con người được mời gọi tham dự. Marx đã có lý khi lên án một lý tưởng Kitô giáo hoàn toàn theo cá nhân chủ nghĩa “cứu linh hồn mình” mà quên hạnh phúc trần gian và cứu rỗi tha nhân.



2. Vì lý do gì Marx đã có thể nhân danh tình người để bài bác Kitô giáo trong khi giới răn căn bản của Kitô giáo lại chính là bác ái đại đồng? Phải nhìn nhận rằng “nhiều Kitô hữu thế kỷ XIX đã không ý thức đầy đủ về các biến đổi kinh tế trước mắt họ, chưa ý thức vai trò trần thế mà đức công bằng và lòng bác ái đòi buộc họ phải thực hiện. Phải chăng người Kitô hữu lại không có bổn phận đi tiên phong trong việc tranh đấu cho giới bần cùng và cho công cuộc thăng tiến xã hội của giới này sao? Tháng 10 năm 1846, Marx soạn thảo bài mở đầu và những quy chế của Liên Hiệp thợ thuyền quốc tế tiên khởi, thế mà mãi 50 năm sau mới có một Đức Giáo Hoàng công bố thông điệp đầu tiên về xã hội…”.

3. Cũng cần nhắc lại hình ảnh méo mó về Kitô giáo dưới cái nhìn của Marx: đó là phái Luther suy đồi hoàn toàn theo cá nhân chủ nghĩa, thường là công cụ chính trị trong tay nhà nước.

4. Sau hết chúng ta nên nhắc lại một vài điếm mà Công Đồng vừa qua đã không ngại nêu lên. Sở dĩ có nhiều cuộc cách mạng xã hội đã mang tính cách bài giáo, chính vì sự tham gia của các tín hữu vào chế độ bất công và áp bức. Hiến chế công đồng về Giáo Hội trong thế giới ngày nay thành thật nhìn nhận người Kitô hữu chịu trách nhiệm về việc phát sinh chủ nghĩa vô thần: “Các tín hữu có thể chịu một phần trách nhiệm không nhỏ trong việc khai sinh chủ nghĩa vô thần, hoặc bởi xao nhãng việc giáo dục đức tin, bởi trình bày sai lạc về giáo lý, hoặc do những thiếu sót trong đời sống tôn giáo, luân lý và xã hội. Có thể nói rằng họ che dấu thay vì bày tỏ một bộ mặt đích thực của Thượng đế và tôn giáo” (MV số 19).

Cũng vậy, thông điệp “Phát triển các dân tộc” nhắc nhở chúng ta con đường phải theo hầu giải phóng chúng ta khỏi “các cơ chế áp bức phát xuất từ những lạm dụng về sở hữu hoặc quyền hành, từ sự bóc lột cần lao hoặc bất công trong vấn đề giao dịch” (Số 21).

B. Một mâu thuẫn ngay trong chủ thuyết của Marx

Marx cho rằng thực tại căn bản tối hậu chính là thực tại lịch sử cụ thể, tức những tổng hợp tương quan xã hội. Sự kế tiếp của những tập hợp tương quan này diễn ra một cách hợp lý và tiến đến một tổng hợp chung kết. Như vậy lịch sử có một ý nghĩa. Xét như một toàn bộ thì nó có thể hiểu được.

Nhưng khi thừa nhận điều đó, chủ thuyết của Marx lại tự mâu thuẫn vì thuyết này chủ trương tri thức con người bị quy định bởi giây phút hiện tại mà thôi. “Tri thức con người chỉ là một phản ảnh của sự hữu, và cùng lắm cũng chỉ là một phản ảnh gần đúng” (Lénine).

Chúng ta có thể chất vấn Marx như sau:

* Hoặc con người có thể phát biểu một chân lý chắc chắn về toàn thể biến trình nhân loại.Nhưng điều đó giả thiết con người phải siêu vượt tình trạng “phản ảnh lịch sử” của họ. Làm thế nào con người có thể tri thức ý nghĩa chung cuộc của lịch sử, nếu không vượt qua giây phút lịch sử họ đang sống, nhờ một tri thức vững chắc? Thế mà theo các nguyên tắc của Marx, con người không thể vượt qua những giây phút lịch sử đang sống.

* Hoặc không được nói đến lịch sử trong toàn bộ của nó và chỉ có quyền quả quyết rằng chỉ có những dự phóng tự do của con người trong từng giây phút mới tạo ra ý nghĩa lịch sử. Nhưng nói như thế là đã ra ngoài chủ thuyết của Marx để rơi vào hiện sinh vô thần.

Sartre nêu rõ sự thiếu mạch lạc đó như sau:

“Nếu sự kiện tâm lý hoàn toàn bị quy định bởi sự kiện sinh vật và sự kiện sinh vật lại bị quy định bởi trạng thái vật lý của thế giới, thì tôi thấy rằng ý thức con người có thể diễn tả vũ trụ tương tự như hậu quả diễn tả nguyên nhân, chứ không phải như tư tưởng diễn tả đối tượng. Một lý trí bị giam hãm, bị điều khiển bởi ngoại giới, bị xách động bởi những nguyên nhân mù quáng, làm sao còn có thể là một lý trí? Làm sao tôi có thể tin vào những nguyên tắc do tôi suy diễn, nếu chính biến cố bên ngoài đã đặt chúng vào trong tôi? Thử xem Lénine nói gì về ý thức của chúng ta: “Nó là phản ảnh của sự hữu, và cùng làm cũng chỉ phản ảnh gần đúng. Nhưng như thế ai dám cho rằng trường hợp hiện tại, nghĩa là chủ thuyết duy vật, là “trường hợp tốt nhất”? Có lẽ một trật vừa phải ở ngoài vừa phải ở trong thuyết đó mới có thể so sánh được. Và vì điều này không thể là vấn đề phải đặt ra ở đây, nên chúng ta không có một tiêu chuẩn nào để thẩm định giá trị của “phản ảnh”, ngoại trừ những tiêu chuẩn nội tại, chủ quan: sự thích hợp…, rõ ràng, phân minh, thường hằng của nó. Tóm lại, đó là những tiêu chuẩn duy tâm”.

C. Một bản văn đáng chú ý trong những thủ bản năm 1884

Đây là một trong những bản văn hiếm hoi trong đó Marx đã trình bày những tư tưởng của mình theo cách thức mà ông cho là triết học, liên quan đến vấn đề vô thần và sự biện minh cho vấn đề đó. Ông đã đối lập ý tưởng về nhân loại là nguyên lý (nguyên nhân) tạo ra chính mình với ý tưởng về Thượng Đế sáng tạo. Trong các Thủ Bản năm 1884, bản dịch của Emile Botigelli, tr.97-98, Editions Sociales, Paris (1962):

1. Một chủ thể chỉ bắt đầu độc lập khi nó tự làm chủ lấy mình và nó chỉ làm chủ lấy mình khi nó tự hiện hữu. Một người sống nhờ kẻ khác, thì bị coi là lệ thuộc. Nhưng tôi sẽ là người sống hoàn toàn lệ thuộc vào người ta, nếu tôi nhờ vào người đó để duy trì cuộc sống, mà hơn nữa nếu tôi chấp nhận họ là người đã tạo dựng nên tôi, là cội nguồn của tôi. Như thế, sự sống của tôi nhất thiết phải có một căn nguyên tương tự ở bên ngoài tôi, nếu nó không phải là sự sáng tạo độc đáo của riêng tôi. Vì thế, sự sáng tạo là một ý tưởng rất khó xua đuổi tâm thức bình dân. Thiên nhiên và con người tự hiện hữu, đó là một sự kiện không thể hiểu được đối với tâm thức bình dân, vì nó đi ngược lại với tất cả những điều hiển nhiên trong đời sống thực tiễn”[1].

Qua ý tưởng trên, chúng ta thấy được lập trường căn bản của thuyết vô thần của Marx. Đặc điểm của con người bị vong thân chính là nhận biết thân phận thụ tạo và hiện hữu của mình lệ thuộc vào Đấng sáng tạo. Trái lại, người theo chủ thuyết của Marx là người đã hiểu rằng chính mình tự hiện hữu.

Dường như K. Marx lẫn lộn sự độc lập kinh tế và xã hội với sự độc lập hữu thể, là sự độc lập thuộc một bình diện khác. Marx xác quyết rằng con người hoàn toàn tự mình hiện hữu, nhưng ông lại không đưa ra một bằng chứng nào cho vấn đề này. Sự độc lập kinh tế và xã hội mà chúng ta phải luôn luôn thăng tiến thì hoàn toàn không làm cho con người trở thành “tự hữu” được. Duy chỉ có một Hữu thể tuyệt đối (Thượng Đế) mới không lệ thuộc vào cái gì khác ngoài mình. Marx đã gán cho con người những đặc tính thần linh. Nhưng, thực tế hiển nhiên đã chứng minh ngược lại.

2. “Thuyết sáng tạo địa cầu đã bị lung lay mạnh bởi khoa địa cầu cấu tạo học. Theo khoa này, trái đất được cấu tạo và biến dịch như một tiến trình tự sinh. Sự ngẫu sinh là lý chứng thực tiễn duy nhất chống lại thuyết sáng tạo”[2].

Ở đây, có sự lầm lẫn hoàn toàn giữa giải thích khoa học và giải thịch hữu thể học. Đó là một võng luận vụng về (paralogisme).

Thực vậy, những khoa học về địa cầu, về thiên nhiên nói chung, đã cho chúng ta thấy trái đất từ từ được cấu tạo như thế nào, thiên nhiên đã tăng triển ra sao. Sự tiến hóa của vũ trụ vật chất và sinh vật là đối tượng nghiên cứu của khoa học. Mọi người dù có tín ngưỡng hay không cũng đều chấp nhận thành quả của nó. Nhưng việc nhận thức được tiến trình cấu tạo của trái đất hoàn toàn không cho phép chúng ta nói thêm rằng tiến trình này là một sự tự sinh, nghĩa là một tiến trình ta có thể giải thích bằng chính nó mà không cần một nguyên nhân sáng tạo nào.

Tresmontant đưa ra nhận xét sau đây: Nếu cho rằng sự tiến hóa này tự nhiên mà có và chúng ta có thể giải thích hoàn toàn bằng chính nó, tức là người ta đã trả lời được vấn đề về hữu thể do sự kiện tiến hóa đặt ra, nhưng như vậy là họ đã không nghiên cứu đúng đắn vấn đề. Người ta đã đưa ra một giải đáp độc đoán trước khi phân tích vấn đề. Tuy không nói ra nhưng người ta đã đem vào lĩnh vực khoa học một lập trường hữu thể học. Thế nhưng trong lĩnh vực khoa học, những khoa học về địa cầu và sự sống không bao giờ (và cũng sẽ không bao giờ) thiết định rằng sự tiến hóa có thể tự nó đem lại một giải thích đầy đủ về phương diện hữu thể học. Một khẳng định như thế có thể là kết luận của việc phân tích hữu thể học. Tất cả vấn đề là ở đấy, nhưng lại không được Karl Marx bàn đến. Cái sai lầm cả thể của Marx là đã coi kết luận của ông như một kết quả của khoa học. Nhưng khoa học, với tư cách là khoa học, không muốn và không thể trả lời đúng hay sai cho vấn đề này, một vấn đề thuộc phạm vi hữu thể học. Lập trường này tạo thêm một thứ phiếm thần mới. Thật thế, để vật chất có thể tự mình tiến hóa từ vật chất thô sơ đến sinh chất, từ sinh chất đến con người có lý trí, dĩ nhiên là phải gán cho vật chất này tất cả những đặc tính của một hữu thể tuyệt đối và thần linh. Nhưng đó lại là một lập trường hữu thể học, không thuộc phạm vi khoa học, vì khoa học không đề cập đến vấn đề này.

3. “Xin trình bày lại với mỗi người điều Aristote đã nói: Anh được cha mẹ anh sinh ra nghĩa là do chính sự giao hợp của hai người. Vậy chính tác động chủng loại của con người đã tạo nên con người anh. Như thế, anh thấy rằng ngay cả trong phương diện vật lý, con người nhận sự hiện hữu từ con người. Anh không nên chỉ xét khía cạnh của vấn đề, tức cái tiến trình vô định đã làm anh thắc mắc: Ai đã sinh ra cha tôi, ai đã sinh ra ông nội tôi…? Cuối cùng anh vẫn phải chấp nhận sự vận chuyển vòng quanh mà trong đó con người, khi sinh sản, lập lại chính mình, tức là con người vẫn luôn là chủ thể”![3]

Ta có thể tóm tắt luận chứng của Marx như sau: con người sinh ra con người, và do đó con người tự hiện hữu do mình và chỉ do chính mình. Và Marx đã nói đến thứ vận chuyển vòng quanh. Ai lại không biết người sinh ra người! Nhưng trước hết chúng ta hãy lưu ý rằng đây hoàn toàn không phải là một vận chuyển vòng quanh. Sự thông truyền của “luật truyền sinh” (code génétique) (theo ngôn từ sinh vật học hiện đại) không có gì là vòng luẩn quẩn. Sự lưu truyền luật này từ cha mẹ đến con cái được ghi khắc trong lịch sử tự nhiên của loài người. Sự lưu truyền này không phải là một sự sáng tạo. Đâu là nguồn gốc của luật này (hay theo ngôn ngữ thế kỷ XIX, nguồn gốc của nhân loại), đó chính là vấn đề triết lý.

Marx muốn tránh né vấn đề nên ông chỉ biết lập luận rằng con người sinh ra con người, mà trả lời vấn nạn chính ở đây là: xét cho cùng do đâu mà có những động lực, những quy tắc, luật di truyền mà con người truyền lại cho con cháu trong khi họ không phải là kẻ sáng tạo nên những luật đó. Tóm lại Marx lẫn lộn sự thông truyền “luật di truyền” với sự sáng tạo ra luật này (theo ngôn ngữ cổ điển hơn, người ta có thể nói: “Marx đã lẫn lộn những nguyên nhân đệ nhị với nguyên nhân căn bản của vạn vật tức là nguyên nhân sáng tạo). “Nguyên nhân tính của Thượng Đế không cạnh tranh với hữu thể và hành động của thiên nhiên, nhưng nằm trong một bình diện khác”.

4. “Bạn sẽ trả lời tôi rằng: Được rồi tôi chấp nhận cái chuyển động vòng tròn đó, nhưng đến lượt ông, ông hãy chấp nhận cái tiến trình luôn đưa tôi đi xa hơn, cho đến lúc tôi hỏi ai đã sinh ra con người đầu tiên và thiên nhiên nói chung. Tôi chỉ có thể trả lời bạn thế này: vấn nạn của bạn chính là một sản phẩm của trừu xuất. Bạn hãy tự hỏi lại xem tại sao bạn có thể đặt ra vấn nạn đó. Bạn thử nghĩ biết đâu câu hỏi của bạn không đến từ một quan điểm (…) sai lầm nào đó. Thử hỏi tiến trình đó có thể hiện hữu đối với một tư tưởng thuần lý không? Lúc bạn hỏi về việc tạo dựng thiên nhiên và con người tức là bạn đã trừu xuất thiên nhiên và con người rồi. Như thế là bạn xem chúng như không hiện hữu vậy. Trong khi đó bạn lại muốn tôi chứng minh chúng như là hiện hữu. Này bạn, bạn hãy gạt bỏ lối trừu xuất của bạn đi, bạn sẽ không còn thắc mắc về câu hỏi đó nữa. Hay là nếu bạn muốn giữ lại lối trừu xuất đó, thì hãy làm sao cho hợp lý, (…) lẽ nào bạn nghĩ mình không hiện hữu, trong khi thật sự bạn vẫn là bản tính và con người. Thôi bạn đừng suy nghĩ nữa, đừng tra vấn tôi nữa. Vì ngay lúc bạn say nghĩ, bạn đặt vấn nạn, thì sự trừu xuất về thiên nhiên và con người không còn ý nghĩa gì nữa[4].

Ở đây Marx chống lại vấn đề nguồn gốc và vấn đề tạo dựng. Để giải đáp, Marx cho rằng vấn đề đó không có nghĩa gì cả, vì đó hoàn toàn là một sự trừu xuất. Ông nói thêm rằng muốn đặt vấn đề nguồn gốc và dĩ nhiên cả vấn đề tạo dựng, thì trước hết phải tưởng tượng rằng trước đó con người không hiện hữu, rồi sau đó con người bắt đầu hiện hữu; và thiên nhiên cũng vậy, trước đó không hiện hữu rồi sau đó mới bắt đầu hiện hữu. Như thế, theo Marx thì điều đó phi lý và không hợp thức (ở đây hình như Marx muốn ru ngủ mọi vấn đề bằng thuốc phiện…). Phủ nhận thiên nhiên và con người là một điều không thể được. Và như vậy, vấn đề nguồn gốc (giả thiết trước đó không có thiên nhiên và con người) là một vấn đề giả tạo.

Ở đây, Marx lầm lẫn giữa suy tưởng và hình dung. Chắc chắn là bao lâu còn sống, con người không thể nào hình dung mình như là không hiện hữu. Tôi biết chắc chắn là năm 1900 tôi chưa hiện hữu. Tôi suy tưởng điều đó mà không có mâu thuẫn tí nào, rất đúng là đàng khác, cho dù trí tưởng tượng của tôi không thể tưởng tượng được điều đó. (Người ta không thể tưởng tượng hình ảnh của một vật không hiện hữu). Đối với thiên nhiên cũng vậy. Nếu những điều Marx đưa ra đều đúng cả, thì phải đi đến kết luận rằng thế giới và con người đã luôn luôn hiện hữu. Đó là điểm sai rõ rệt nhất, ít là trong trường hợp con người.

Marx bị bó buộc phải kết luận rằng thiên nhiên là vĩnh cửu vì thiên nhiên là thực tại duy nhất. Giả sử trước đó thiên nhiên không hiện hữu, thì nó cũng đã không bao giờ có thể hiện hữu được (vì theo giả thuyết này thì Thượng Đế không hiện hữu).

Nhưng nếu gạt bỏ vấn đề thời gian ra ngoài, thì vấn đề tạo dựng không còn liên hệ tới vấn đề thời gian hữu hạn hay vô cùng. Thánh Tôma đã thấy rõ rằng cho dù thế giới có một bắt đầu nào đó hay không trong thời gian, thì điều đó vẫn không thay đổi được vấn đề là thế giới có tuyệt đối, có tự hữu hay không. Một thực tại bất tất, dù hiện hữu đời đời, cũng sẽ đòi hỏi từ đời đời một nguyên nhân tuyệt đối, không bất tất. Bất tất tính chi phối mọi giây phút của thiên nhiên (hay của vũ trụ). Những giây phút đó, dù vô hạn hay hữu hạn, cũng không làm mất bất tất tính đó được. Hay nói theo những thí dụ cổ điển, một con kênh có dài đến vô tận cũng không cho được một nguồn nước. Một cái cán bút có dài đến vô tận cũng không cho phép ngòi bút viết một mình!

5. “Bạn có thể bắt bẻ rằng: Tôi không muốn đặt vấn đề thiên nhiên không hiện hữu v.v…, tôi muốn ông cho tôi biết thiên nhiên khai nguyên thế nào, giống như tôi xin nhà cơ thể học cho tôi biết sự cấu tạo của xương v.v… Nhưng đối với người theo chủ nghĩa xã hội, thì tất cả cái gọi là lịch sử của thế giới, sẽ không là gì khác ngoài sự sản xuất của con người nhờ cần lao, ngoài sự biến dịch của thiên nhiên để phục vụ con người. Như vậy người theo chủ nghĩa xã hội có một bằng chứng trực giác, không thể chối cãi về sự tự hữu của mình, của quá trình nguồn gốc của mình. Vì đặc tính cốt yếu của con người và của thiên nhiên đối với con người (theo chủ nghĩa xã hội) đã trở nên khả giác và hữu hình (…) cho nên vấn nạn về một hữu thể xa lạ, – một hữu thể vượt lên trên thiên nhiên và con người – vấn nạn bao hàm tính chất bất tất của thiên nhiên và của con người -, vấn nạn như thế thực tế không thể có được”. (Trong phân tiếp theo, Marx tuyên bố rằng ngay cả vô thần, tức sự phủ nhận Thượng Đế, cũng sẽ tự biến mất như chủ trương hữu thần, vì bấy giờ người ta sẽ không còn đặt vấn đề ấy nữa)[5].

Ở đây Marx rất khôn khéo. Ông chơi chữ về ý nghĩa của tiếng “cốt yếu” (essentiel). Thật ra chính Kitô hữu là người đầu tiên chấp nhận con người là một hữu thể cốt yếu, là cùng đích của mọi loài tạo vật, được mời gọi tham dự vào chính sự sống của Thượng Đế. Một cách nào đó, chính Thượng Đế tự hạ mình đến độ nhập thể vì yêu thương con người… Nhưng Marx lại đi từ đặc tínhcốt yếu này đến tính tuyệt đối. Với Marx thì cốt yếu và tuyệt đối đồng nhất với nhau. Đó là điểm hàm hồ đầu tiên.

Điểm hàm hồ khác là con người tự tạo lấy chính mình. Chắc chắn là nhờ việc làm và kỹ nghệ, nghệ thuật và trong các khoa học, con người tự hoàn bị, tự “xây dựng” lấy chính mình. Và còn đúng hơn nữa khi con người đi vào những phạm vi mật thiết nhất của nguồn gốc sự sống. Nhưng để cộng tác vào việc tạo thành nhân loại, trước tiên con người phải hiện hữu đã. Và không phải nhờ việc làm con người mới tạo cho mình sự hiện hữu, một sự hiện hữu theo nghĩa đích thực của nó. Thành ngữ “tự tạo” (causa sui) mà Descartes và Spinoza gán cho Thượng Đế để diễn tả đặc tính Hữu Thể tuyệt đối hoàn hảo của Ngài, ở đây đã được Marx gán cho con người. Điều đó phi lý, phải nói thẳng như vậy. Ngay cả ông tổ loài người cũng đã nhận lãnh sự hiện hữu như tất cả mọi người. Ông đã không tự cho mình hiện hữu nhờ việc làm của đôi tay ông.

Ngược lại, người Kitô hữu không nên quên sự cao cả của con người. Một giáo phụ nói: “Vinh quang của Thượng Đế, chính là con người đang sống”. Chúng ta có thể diễn tả bằng ngôn ngữ ngày nay: Vinh quang của Thượng Đế chính là con người tự do và trách nhiệm, con người kiến tạo ở mọi mức độ, là con người của kinh tế hay của kỹ thuật, của nghệ thuật hay của triết lý. Việc chấp nhận Thượng Đế không làm trở ngại sáng kiến của con người nhưng khai mở nhân loại đến sự khởi vượt vô biên.

D. Một thuyết nhân bản thiếu sót và giản lược

1. Điều đáng chú ý hơn cả trong chủ thuyết nhân bản của Marx là thiếu tôn trọng mọi chiều kíchcủa nhân phẩm. Con người và kinh nghiệm nhân bản bị giản lược vào một chiều kích duy nhất là chiều kích kinh tế và xã hội (x. L’homme unidimentionnel, của Marcuse, Paris 1968).

Thực vậy chủ thuyết của Marx chỉ thấy được một chiều kích duy nhất trong sự hiện hữu của con người và trong đà tiến của tự do. Đà tiến này nâng đỡ và gắn liền với chủ thuyết. Con người chỉ là một một hữu thể được mời gọi thắng vượt các sức mạnh của thiên nhiên và san bằng mọi chênh lệch xã hội và kinh tế. Dĩ nhiên công cuộc chinh phục này rất quan trọng và không nên coi thường. Cũng thế, mọi người phải đấu tranh chống lại những bất công xã hội. Nhưng đối với Marx thì con người chỉ có thế. Trong viễn tượng đó, Thượng Đế trở nên dư thừa.

2. Trong con người còn có một ý nghĩa sâu xa hơn ý nghĩa kinh tế nhiều. Con người nhận thức mình như một huyền nhiệm, một hữu thể có trách nhiệm, một hữu thể đạo đức, ý thức mình bị bó buộc theo các quy luật siêu vượt chủng tộc, quốc gia, kinh tế… Tình yêu, tình bạn, vinh dự, bác ái…, tất cả không thể giản lược vào lãnh vực kinh tế và xã hội được. Bảo rằng tất cả điều đó chỉ là phản chiếu các hoàn cảnh thuần vật chất thì thật dễ dàng, nhưng cần phải chứng minh điều ấy.

Những tiến bộ của khoa tâm lý học chiều sâu đã mở rộng một cách đáng kể kiến thức của ta về những yếu tố khách quan ảnh hưởng đến con người. Xã hội và tiến bộ kinh tế không hủy bỏ được những mặc cảm, sự ghen tương, và những bản năng phá hoại, cũng như không hủy bỏ được việc phân phối không đồng đều những ân huệ, tài năng và những may lành, phúc lộc do những tài năng đó đem lại. Thực hiện được một nền kinh tế lý tưởng cũng không thể giải đáp ổn thỏa các vấn đềcá nhân và không thỏa mãn mọi nguyện vọng của con người. “Giản lược lương tri con người vào ý thức xã hội của họ chính là một sai lầm không thể chối cãi được. Dù Marx nghĩ thế nào đi nữa, những tương giao của con người cũng chỉ tùy thuộc rất ít vào trung gian cần lao và sản xuất. Các tương giao ấy là tình yêu và tình bạn, chúng chỉ có thể được diễn tả bằng những hạn từ liên chủ thể” (J.M van Cangh).

3. Marx tin rằng xã hội vô giai cấp sẽ xóa bỏ được mọi vấn đề. Thế mà ngược lại, con người băn khoăn về ý nghĩa sau cùng của sự sống và sự chết, sự ác và tình yêu. “ Cho dù luôn muốn được bất tử, con người vẫn luôn bị dày vò bởi cái vô cùng”. Cái chết là sự vong thân căn bản mà những người theo chủ thuyết của Marx đành bó tay không giải đáp được. “Phải chăng chỉ cần tuyên bố rằng sự hy sinh hôm nay sẽ ích lợi cho nhân loại ngày mai là đủ? Sự bất tử của cộng đồng không thay thế được sự bất tử cá nhân, cũng không thể làm cho kẻ hấp hối an tâm trở về cát bụi”. Marx đã tránh né vấn đề bằng cách tạo ra một huyền thoại về một xã hội lý tưởng ngày mai. Nhưng có phải xã hội tương lai này sẽ không bao gồm những cá nhân phải đương đầu với những vấn đề như hôm nay chăng? Phái hiện sinh có cái nhìn đúng hơn khi quả quyết rằng mọi khoắc khoải đều phát sinh trong lòng người, vì con người biết rằng mình phải chết, vì con người bị xâu xé bởi khát vọng muốn sống khi thấy chắc sự chết sẽ đến.

E. Một vài sự kiện
1. Những sự kiện đã chứng minh một cách rõ ràng rằng phân tích xã hội học của Marx về tôn giáo có phần kém xác thực. Marx tuyên bố rằng tôn giáo là kết quả của sự vong thân, của áp bức kinh tế, trong một tình trạng “vô sản”. Nhưng De Lubac nhận xét rằng: “Thực tế cho thấy người dân càng trở nên vô sản thì họ càng đánh mất cảm thức tôn giáo. Vong thân là đặc tính tiêu biểu của thân phận vô sản, sự vong thân xã hội ngày càng gia tăng không thể đem lại cho con người hứng khởi tôn giáo như một bù trừ thần bí nào đó, trái lại nó có khuynh hướng bóp nghẹt thiện cảm đối với tôn giáo. Sự vong thân này đã làm cho xã hội mà nó phi nhân hóa “khước từ Thượng Đế”[6]. Đó là thảm kịch vô thần trong giới thợ thuyền Âu châu, trong những chế độ đàn áp của chủ nghĩa tư bản chưa được cải tiến. Các Đức Giáo Hoàng gần đây đã nhấn mạnh rằng tôn giáo và luân lý không thể có được khi những điều kiện sinh sống không cho phép con người sống với nhân phẩm tối thiểu.

2. Trong những nước theo chủ thuyết của Marx, ai cũng biết là chính quyền đã phải nhúng tay vào bao cuộc bách hại để diệt trừ tôn giáo. Thế nhưng chính Marx đã lên án việc sử dụng bạo lực. Ông cho rằng tôn giáo sẽ tự hủy một khi đã thay đổi được những điều kiện xã hội. Hiện thời,những phong trào tôn giáo không ngừng sống dậy đã làm cho giới hữu trách trong chính quyền cộng sản lo âu rất nhiều. Đáng lý ra, nếu người cộng sản tin tưởng vào lời tiên đoán của Marx, thì họ phải dám liều để dân chúng được tự do…

3. Người ta có thể tin rằng những sự kiện kể trên một phần lớn tùy thuộc vào sự kiện sau đây: Marx đã đồng hóa niềm tin đích thực của tôn giáo với sự mê tín dị đoan. “Làm như là kinh nghiệm giải thoát của các tôn giáo Ấn Độ và sự tự do cả con cái Thiên Chúa mà thánh Phaolô đã nói đến, cũng giống như sự sợ hãi của dân mọi rợ đối với các ác thần! Như thế là coi thường các dữ kiện rất sơ đẳng của kinh nghiệm” (A. Dondeyne). Sự sai lầm của lối phân tích này đưa đến hậu quả là dùng võ lực để tiêu hủy một thực tại trường cửu giống như người ta tiêu diệt dị đoan bằng tiến bộ khoa học và thay đổi các điều kiện xã hội.

4. Nhưng còn có một điều kiện đáng lưu tâm hơn: đó là Do Thái giáo. Tôn giáo này hoàn toàn khác hẳn với kết quả phân tích của Marx. Đây, hãy nghe R. Coffy trình bày: “Nếu con người đã phát minh ra Thượng Đế, và đã phát minh theo hình ảnh của mình, nếu người ta thấy một tương quan giữa cơ cấu xã hội với ý tưởng về Thượng Đế mà xã hội ấy tạo ra, thì làm sao giải thích trường hợp của dân tộc Do Thái, một dân tộc rất quê kệch, không triết lý, một dân tộc với nền văn minh rất thô sơ, sánh với những nền văn minh của các dân tộc khác cùng thời ở chung quanh, lại có một ý niệm về Thượng Đế cao vời và tinh ròng nhất? Làm sao cắt nghĩa được sự kiện họ vẫn thờ độc thần mặc dù các dân tộc lân cận thờ đa thần và họ chịu ảnh hưởng của các dân tộc này? Trước tiên sống đời du mục, kế đó định cư, lưu đày bên Ai Cập, bên Babylon, lưu lạc 40 năm trong sa mạc, sống đưới chế độ quân chủ trong nhiều thế kỷ và sau cùng bị dân Rôma đô hộ, thế nhưng dân tộc Do Thái vẫn giữ vững một niềm tin vào cùng một Thượng Đế. Người ta không thể nói rằng Do Thái giáo là một phản ảnh thuần túy của đời sống xã hội. Dù với một nền văn hóa thua kém nếu so sánh với nền văn hóa Ai Cập, thế nhưng dân Do Thái đã có một ý niệm siêu việt nhất về Thượng Đế, và duy chỉ có dân này là đạt tới ý tưởng về sự tạo dựng vũ trụ. Sức mạnh nào đã tác động họ và đã giữ vững họ trong một tuyên xưng niềm tin vào một Thượng Đế Tạo Hóa, trong khi theo chiều hướng tự nhên, họ có thể tôn thờ ngẫu tượng như mọi dân tộc khác?

Phải chăng người ta có thể nói rằng dân Do Thái đã tạo nên thiên giới để trốn tránh cõi trần, để bù cho kiếp sống khốn cùng của họ và cho biết bao nhục mạ mà họ phải gánh chịu? Không thể được, bởi vì cho đến thế kỷ II trước Tây lịch, dân Do Thái chưa hề tin có sự trả công đời sau. Trong bao nhiêu thế kỷ dài đằng đẳng, họ tin vào một Thượng Đế duy nhất và là Đấng Tạo Hóa, và tin có âm phủ, một nơi mà những người chết sẽ đến, một nơi không có vui sướng, vì nó trống rỗng, “một chốn tối tăm và câm lặng, một ác thú ghê tởm và thèm khát” (Gelin). Chỉ cần đọc lại một vài thánh vịnh thì đủ biết dân Do Thái chẳng muốn sa vào âm phủ, và đủ biết họ cầu khẩn liên lỉ để sống lâu bao nhiêu có thể trên dương thế này. Như thế có thể nói đến sự vong thân không? Hoàn toàn không, và chủ thuyết của Marx không thể giải thích được trường hợp dân tộc Israel. Những người theo chủ thuyết của Marx đã nghiên cứu hết mọi tôn giáo, trừ ra Do Thái giáo?”.

IV. Trong chiều hướng đối thoại

Trong những năm gần đây, đã có nhiều cuộc gặp gỡ giữa người Kitô giáo và những người theo chủ thuyết của Marx (dĩ nhiên là trong những nước không theo chủ thuyết của Marx), để bàn cãi một cách thành thực và khách quan những quan điểm riêng biệt của mỗi bên. Sau đây là một số tài liệu tiêu biểu nhất:

KARL RAHNER, l’Avenir Chrétien de l’homme, bài thuyết trình trong buổi gặp gỡ giữa Kitô giáo và những người theo chủ thuyết của Marx tại Salzbourg, từ 29-4 đến 2-5-1965.
ROGGER GARAUDY, De l’anathème au dialogue. Un marxiste s’adresse au Concile, Paris 1965.
G. COTTIER, Chrétiens et marxistes; dialogue avec R. Garaudy, Paris 1967.
En collab., Dieu aujourd’hui, Recherches et Débats, Paris 1965; nhiều đề mục do những người theo chủ thuyết của Marx và Công Giáo trình bày, về những vấn đề mà ta đã nói tới.

* Trích từ cuốn Con người và vấn đề Thượng Đế của Lm. Louis Leahy, S.J, Phân khoa Thần học, Giáo hoàng Học viện thánh Piô X, Đà Lạt, Việt Nam 1974. Bản điện tử do Lam Hồng thực hiện.

[1] Karl Marx, Manuscrit économico – politique, Mol. VII, tr.38-41. Bản dịch đã sửa chữa theo Mega, I. bản dịch 3, tr.124-126.
[2] Karl Marx, Manuscrit économico – politique, Mol. VII, tr.38-41
[3] Karl Marx, Manuscrit économico-politique, tr. 38-41.
[4] Karl Marx, Manuscrit économico-politique, tr. 38-41.
[5] Karl Marx, Manuscrit économico – politique, tr.38-41
[6] H. DE BULAC, Sur les chemins de Dieu, xb lần III, 1956, tr 208-209.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét